Nghị định số 67/2012/NĐ-CP
Nguyễn Đăng Dương-CCTL&PCLB
2013-11-23T18:11:01-05:00
2013-11-23T18:11:01-05:00
https://snnptnt.binhphuoc.gov.vn/vi/tlpclb/tin-tuc-su-kien/Nghi-dinh-so-67-2012-ND-CP-1.html
https://snnptnt.binhphuoc.gov.vn/uploads/tlpclb/2013_06/new-picture-1.png
SỞ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TỈNH BÌNH PHƯỚC
https://snnptnt.binhphuoc.gov.vn/uploads/logo-so-nong-nghiep-phat-trien-nong-thon-binh-phuoc.png
Kể từ ngày 01/01/2013, mức thu thủy lợi phí được điều chỉnh theo nội dung Nghị định số 67/2012/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 10/9/2012 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 143/2003/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi. Những điều chỉnh tại Nghị định này tác động đến hàng triệu hộ nông dân và doanh nghiệp thủy lợi trên phạm vi cả nước và người dân trên địa bàn tỉnh Bình Phước.
Một số kết quả và bất cậpCác chính sách về thủy lợi phí đã đáp ứng được chủ trương giảm bớt một phần chi phí của người dân trong sản xuất; tạo điều kiện cho các địa phương tập trung hơn trong quản lý, khai thác các công trình thủy lợi, kênh mương, nâng cao năng lực quản lý, điều hành nhằm phát huy tối đa hiệu quả các công trình. Điển hình là Nghị định 143/2003/ NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi; Nghị định 115/2008/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 143/2003/NĐ-CP và trước yêu cầu thực tế đó nảy sinh một số bất cập, Chính phủ tiếp tục có những quy định mới điều chỉnh. Nghị định 115/2008/NĐ-CP ban hành ngày 14/11/2008, Chính phủ đã đưa ra quy định về miễn thủy lợi phí đối với nông dân được giao đất sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản và làm muối. Đây là một bước ngoặt mới trong công tác quản lý, khai thác công trình thủy lợi. Sau hơn gần 4 năm triển khai, chính sách này đó đáp ứng được chủ trương giảm bớt một phần chi phí của người dân trong sản xuất; Diện tích tưới, tiêu năng suất lúa được nâng lên; Tạo ra nguồn kinh phí ổn định cho các địa phương, đơn vị quản lý khai thác công trình thủy lợi (Công ty TNHH MTV dịch vụ thủy lợi Bình Phước) chủ động trong hoạt động phục vụ sản xuất, dân sinh, duy tu, sửa chữa công trỡnh thủy lợi; Tổ chức quản lý, khai thác công trình thủy lợi từng bước được sắp xếp, củng cố và kiện toàn...Bên cạnh những kết quả đáng khích lệ, trong thực hiện, triển khai chính sách này vẫn còn một số bất cập như:- Biến động về giá cả, tiền lương, vật tư nhiên liệu hàng năm đều tăng nhưng mức cấp theo Nghị định 115/2008/NĐ-CP không được điều chỉnh hàng năm nên phần kinh phí dành cho duy tu bảo dưỡng công trình qua các năm ít dần, gây khó khăn trong quản lý khai thác công trỡnh thủy lợi.- Quy định mức cấp bù phí chưa đồng đều giữa các vùng miền, chưa công bằng trong việc cấp bù cho hai loại hình tổ chức hợp tác doanh nghiệp quản lý công trình thủy lợi được đầu tư từ hai nguồn vốn khác nhau (từ Nhà nước và từ vốn dân tự huy động) dẫn đến mâu thuẫn khi thực hiện phân cấp.- Việc áp dụng mức thu tiền nước đối với tổ chức, cá nhân sử dụng nước để nuôi trồng thủy sản tại công trình hồ chứa thủy lợi của Nghị định 115/2008/NĐ-CP khó thực hiện với các đơn vị quản lý khai thỏc cụng trỡnh thủy lợi không xác định được giá trị sản lượng thực tế của các tổ chức cá nhân nuôi trồng thủy sản.Những quy định mới của Nghị định 67/2012/NĐ-CPĐể tháo gỡ những bất cập còn phát sinh trong quá trình thực hiện chính sách miễn thủy lợi phí, Chính phủ đã ban hành Nghị định 67/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 về quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trỡnh thuỷ lợi. Những thay đổi về chính sách miễn thuỷ lợi phí mới này sẽ là một trong những giải pháp tích cực đầu tư công vào nông nghiệp nông thôn, các quy định mới được nêu tại Nghị định 67/2012/NĐ-CP là:- Đối với mức thu thuỷ lợi phí, so với mức thu thủy lợi phí quy định tại Nghị định 115/2008/ NĐ-CP, mức thu theo Nghị định thay thế tăng lên 1,5 lần. Đây được xem là mức điều chỉnh cho phù hợp với chi phí thực tế phát sinh của các đơn vị quản lý khai thác công trình thuỷ lợi. Trong đó, mức thu thuỷ lợi phí đối với vùng núi được nhân hệ số 1,1 lần so với đồng bằng; mức thu theo các biện pháp tưới tiêu: tưới tiêu bằng trọng lực được tính bằng 70% tưới bằng động lực. Tưới tiêu kết hợp giữa trọng lực và động lực được tính bằng 85% động lực; Mức thu thuỷ lợi phí đối với các đơn vị chỉ thực hiện nhiệm vụ tưới (tính bằng 70%), tiêu (tính bằng 30%). Đối với trường hợp phải tưới từ 2 bậc trở lên được cộng thêm 20% mức bình thường; Mức thu tiền nước để phục vụ cho các mục đích không phải sản xuất lương thực được nhân 1,2 lần so với mức thu tiền nước của Nghị định 115/2008/NĐ-CP. - Cấp nước tưới cho cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả, hoa, cây dược liệu nếu không tính được theo mét khối (m3) thì thu theo diện tích (ha), mức thu bằng 80% mức thuỷ lợi phí đối với đất trồng lúa cho một năm (trước đây là mức thu bằng 40% mức thu đối với đất trồng lúa không quy định theo vụ hoặc năm); Thống nhất mức thu thuỷ lợi phí (cũng là mức thu cấp bù) đối với công trình đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước và nguồn vốn ngân sách nhà nước.- Nghị định nêu rừ đối tượng được miễn thủy lợi phí gồm đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp phục vụ nghiên cứu, sản xuất thử nghiệm, diện tích đất trồng cây hàng năm có ít nhất một vụ lúa trong năm; diện tích đất làm muối; Diện tích đất trồng cây hàng năm có ít nhất một vụ lúa trong năm bao gồm đất có quy hoạch, kế hoạch trồng ít nhất một vụ lúa trong năm hoặc diện tích đất có quy hoạch, kế hoạch trồng cây hàng năm nhưng thực tế có trồng ít nhất một vụ lúa trong năm; Toàn bộ diện tích đất nông nghiệp được Nhà nước giao hoặc công nhận cho hộ nghèo; đồng thời, miễn thủy lợi phí đối với diện tích đất nông nghiệp trong hạn mức giao đất nông nghiệp cho các đối tượng gồm: 1- Hộ gia đỡnh, cá nhân nông dân được Nhà nước giao hoặc công nhận đất để sản xuất nông nghiệp, bao gồm cả đất được thừa kế, cho tặng, nhận chuyển quyền sử dụng đất; 2- Hộ gia đình, nông trường quốc doanh (hoặc các công ty nông nghiệp chuyển đổi từ nông trường quốc doanh) để sản xuất nông nghiệp theo quy định của pháp luật; Nghị định cũng quy định các đơn vị quản lý, khai thác công trình thủy lợi có trách nhiệm phục vụ đầy đủ, kịp thời đúng tiến độ về dịch vụ tưới nước và tiêu nước cho sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và làm muối đồng thời thực hiện triệt để chính sách tiết kiệm nước. Hàng năm, các đơn vị quản lý, khai thác công trình thủy lợi thực hiện lập dự toán, xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh báo cáo cơ quan có thẩm quyền để phê duyệt như sau: Đối với các đơn vị quản lý khai thác công trình thủy lợi do trung ương quản lý báo cáo Bộ Nụng nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Tài chính; Đối với các đơn vị quản lý khai thác công trình thủy lợi do địa phương quản lý báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để báo cáo Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Tác giả bài viết: Nguyễn Đăng Dương-CCTL&PCLB