Khoa học công nghệ thủy lợi 80 năm phát triển và đồng hành cùng đất nước (1945-2025)
Nguyễn Quang
2024-11-18T03:02:06-05:00
2024-11-18T03:02:06-05:00
http://snnptnt.binhphuoc.gov.vn/vi/news/tin-trong-nuoc/khoa-hoc-cong-nghe-thuy-loi-80-nam-phat-trien-va-dong-hanh-cung-dat-nuoc-1945-2025-3101.html
http://snnptnt.binhphuoc.gov.vn/uploads/news/2024_11/image_4.png
SỞ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TỈNH BÌNH PHƯỚC
http://snnptnt.binhphuoc.gov.vn/uploads/logo-so-nong-nghiep-phat-trien-nong-thon-binh-phuoc.png
Ngày 14/11, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức hội nghị khoa học công nghệ thủy lợi 80 năm phát triển và đồng hành cùng đất nước (1945-2025). Đây không chỉ là sự kiện đánh dấu chặng đường 80 năm phát triển và trưởng thành của ngành thủy lợi, mà còn là dịp tôn vinh những đóng góp của ngành cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Theo báo cáo từ Cục Thủy lợi, Việt Nam đã xây dựng được hơn 900 hệ thống thủy lợi có quy mô phục vụ từ 200 ha trở lên; trong đó, có 122 hệ thống vừa và lớn phục vụ trên 2.000 ha, hơn 40.000 km đê sông và đê biển đã được xây dựng phục vụ và bảo vệ hoạt động dân sinh, sản xuất các ngành kinh tế. Cả nước có gần 8.000 đập và hồ chứa với tổng dung tích trữ khoảng 68 tỷ m3 nước, góp phần điều hòa và phân bổ nguồn nước hiệu quả, trong đó các hồ thủy điện đóng vai trò quan trọng, với tổng dung tích trữ với khoảng 53,5 tỷ m³.
Nhiều công trình thủy lợi lớn được xây dựng cho thấy sự trưởng thành về chất lượng chuyên môn của cán bộ thủy lợi, ứng dụng khoa học công nghệ kỹ thuật. Điển hình, hồ Dầu Tiếng ở Đông Nam bộ là hồ thủy lợi nhân tạo lớn nhất Đông Nam Á; hồ Định Bình là hồ có đập ngăn sông đầu tiên của Việt Nam áp dụng công nghệ thi công bê tông đầm lăn; hệ thống đập hồ chứa nước Sông Cái là đập bê tông dài nhất Việt Nam…Hay các hồ Ayun Hạ, la Mơr, Krông Búk Hạ, Hồ Ea H’leo... ở Tây Nguyên đã trở thành những kho chứa nước khổng lồ phục vụ nhu cầu sản xuất, sinh hoạt và phát triển kinh tế - xã hội. Gần đây, cống Cái Lớn - Cái Bé đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát mặn cho 384.000 ha đất canh tác tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Đến nay, 4,3 triệu ha đất canh tác được đảm bảo tưới phục vụ trồng trọt, 500 nghìn ha cây trồng cạn được áp dụng tưới tiên tiến, tiết kiệm nước; 8,4 triệu con gia súc, 480 triệu con gia cầm và gần 690.000 ha nuôi trồng thủy sản được cấp phục vụ chăn nuôi; cấp khoảng 6,5 tỷ m3 nước phục vụ sinh hoạt và công nghiệp; 88,5% người dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh.
Trải qua nhiều thế hệ, ngành thuỷ lợi đã xây dựng lên hệ thống đê điều với quy mô rất lớn, có nhiệm vụ quan trọng trong bảo vệ an toàn tính mạng tài sản của Nhà nước và nhân dân trước lũ bão, thiên tai. Hiện trên cả nước có tổng số 9.708,1 km đê (đê sông: 6.892,4 km; đê cửa sông: 1.161,7 km; đê biển: 1.307,5 km; 346 km đê bao), trong đó 2.776 km đê từ cấp III đến cấp đặc biệt có nhiệm vụ bảo vệ diện tích lớn, dân số đông và nhiều khu vực trung tâm kinh tế, chính trị quan trọng của đất nước trước lũ, bão, tập trung chủ yếu ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Ngoài ra, vùng Đồng bằng sông Cửu Long còn có khoảng 45.508km đê bao, bờ bao các loại.
Theo Cục trưởng Cục Thủy lợi Nguyễn Tùng Phong, các thành tựu khoa học công nghệ đã được áp dụng hiệu quả, điển hình như các hệ thống thủy lợi lớn như Bắc Hưng Hải, Cầu Sơn, Cấm Sơn. Những công trình này không chỉ hỗ trợ tưới tiêu mà còn đóng góp vào công tác phòng chống thiên tai, ứng dụng công nghệ mới để đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành.
Hiện đại hóa hệ thống thủy lợi cũng là một trọng tâm, với việc áp dụng công nghệ tự động trong quan trắc, dự báo và quản lý các công trình lớn như hồ Tả Trạch và Cửa Đạt. Bên cạnh đó, ngành thủy lợi hiện nay không chỉ phục vụ nông nghiệp mà còn đảm nhận các nhiệm vụ đa ngành, như cung cấp nước sạch cho vùng nông thôn, đảm bảo an sinh xã hội và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Trước thách thức trong việc ứng dụng khoa học công nghệ, Cục trưởng Cục Thủy lợi cho rằng cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa công tác quản lý thực tiễn và khoa học công nghệ để giải quyết các vấn đề hiện tại và dự báo tương lai.
Quang cảnh hội nghị
Tuy nhiên, nguồn nhân lực chất lượng cao đang là một thách thức lớn, do khó khăn trong tuyển sinh và số lượng sinh viên ngành thủy lợi giảm dần. Để đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành, ông Phong cho rằng cần có giải pháp hỗ trợ và khuyến khích sinh viên tham gia vào ngành truyền thống này, tiếp tục đóng góp vào sự nghiệp thủy lợi trong tương lai.
GS.TS Trịnh Minh Thụ, Hiệu trưởng Trường Đại học Thủy lợi cho biết, trong Chiến lược phát triển trong giai đoạn từ năm 2021 đến 2030, tầm nhìn đến năm 2050, nhà trường đặt mục tiêu trở thành một cơ sở giáo dục đại học đa ngành, định hướng nghiên cứu, nằm trong Top 10 trường đại học hàng đầu Việt Nam trong các lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ, kinh tế và quản lý, đặc biệt là trong thủy lợi, tài nguyên môi trường, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, đóng góp vào sự phát triển bền vững của đất nước.
Để nâng cao nguồn nhân lực chất lượng cho ngành, GS.TS Trịnh Minh Thụcho rằng định hướng phát triển nguồn nhân lực ngành thủy lợi trong thời kỳ mới tập trung vào đa dạng hóa và nâng cao chất lượng đào tạo, không chỉ chú trọng kỹ thuật chuyên môn mà còn bám sát nhu cầu thực tiễn.
Tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Hoàng Hiệp đánh giá: "Thành tựu 80 năm qua của ngành thủy lợi không thể tách rời vai trò then chốt của khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ đã và đang là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của ngành. Từ những nghiên cứu cơ bản về thủy văn, địa chất công trình, vật liệu xây dựng... đến việc ứng dụng các công nghệ tiên tiến trong khảo sát, thiết kế, thi công và quản lý vận hành công trình thủy lợi, khoa học công nghệ đã góp phần quan trọng tạo nên những bước tiến vượt bậc cho ngành".
Các giải pháp khoa học công nghệ đóng vai trò quan trọng nhằm hướng tới bảo vệ toàn diện các khu vực, giải pháp tưới tiên tiến, tiết kiệm và hiệu quả, nâng cao khả năng ứng phó và xây dựng hạ tầng chống chịu tốt nhất trước tác động ngày càng gia tăng của biến đổi khí hậu… Để làm được điều này, Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Hiệp khẳng định ngoài nỗ lực chung, mấu chốt vẫn là vấn đề nhân lực.
Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Hiệp nhấn mạnh, trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, gắn liền với những tác động của biến đổi khí hậu và việc khai thác nguồn nước thượng nguồn, các nhiệm vụ và yêu cầu của ngành thủy lợi cũng có sự thay đổi. Quan điểm phát triển của thủy lợi đang chuyển từ vai trò "đi sau" để hỗ trợ các ngành khác sang vai trò "đi trước", căn cứ vào nguồn nước, từ đó quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội.
"Ngành thủy lợi cần xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích đổi mới sáng tạo và thu hút nhân tài. Đồng thời, đẩy mạnh hợp tác quốc tế để tiếp cận tri thức và công nghệ tiên tiến, cũng như tăng cường liên kết giữa viện nghiên cứu, trường đại học với doanh nghiệp để ứng dụng nhanh kết quả nghiên cứu vào thực tiễn", Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Hiệp nhấn mạnh.
Về một số yêu cầu đặt ra cho ngành thủy lợi trong thời gian tới, Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Hiệp cho rằng, việc triển khai, thực hiện các bản quy hoạch, đặc biệt là các quy hoạch thủy lợi, phòng, chống thiên tai quốc gia đã được phê duyệt là cấp thiết.
Tác giả bài viết: Nguyễn Quang
Nguồn tin: (TH)