Quy trình kỹ thuật trồng ngô vụ đông trên đất 2 lúa

Thứ năm - 10/09/2015 22:39 19.852 0
Quy trình kỹ thuật này được áp dụng cho khu vực Trung du miền núi phía Bắc, đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung bộ, trên chân đất sản xuất 2 vụ lúa.
1. Yêu cầu thời vụ: Thời vụ trồng ngô đông trên đất 2 vụ lúa phù hợp nhất trong khoảng thời gian từ 15-25/9 dương lịch. Có thể kéo dài thời gian đến 05/10 dương lịch, nhưng phải trồng bằng bầu. Tùy vào điều kiện khí hậu, thời tiết cụ thể từng năm, để ngô đạt năng suất, hiệu quả kinh tế cao, hạn chế rủi ro… thì tùy theo từng giống để bố trí thời điểm gieo trồng thích hợp sao cho giai đoạn trỗ cờ, phun râu an toàn nhất trong khoảng thời gian từ 10-15/11 dương lịch. 2. Giống ngô: Trong vụ đông, sử dụng các giống ngô có thời gian sinh trưởng từ 100-110 ngày. Ngoài ra, sử dụng các giống ngô đạt các tiêu chuẩn sau: - Có bộ rễ chân kiềng khỏe, chống đổ ngã tốt. - Chịu trồng được mật độ cao, có tán lá gọn. - Khả năng kết hạt tốt. Có tiềm năng năng suất cao. - Có khả năng: chịu hạn, lạnh và chống chịu sâu bệnh tốt. Giới thiệu các giống ngô: + Giống ngô lai: VS36, NK4300, P4199, CP333, SSC557, SSC586, SSC131, NK6326, NK67, NK6654, NK4300, NK66, DK9901, DK9955, C919, CP3Q, CP555, LVN145, LVN4, LVN99, LVN45... + Các giống ngô thực phẩm khá đa dạng, gồm nhóm ngô nếp có thời gian sinh trưởng ngắn, năng suất cao, chất lượng tốt (MX2, MX4, MX6, MX10, VN2, Wax 44, Wax 48, Wax 50, Milky 36, Tím dẻo 926, Victory 924, HN88...), nhóm ngô đường (Sugar 75, Sugar 77, Hoa Trân 1357, Golden Sweteer 93...). 3. Sản xuất cây con bằng bầu cải tiến: Ngoài biện pháp tra hạt trực tiếp trên luống trồng, thì sản xuất cây con bằng bầu cải tiến là biện pháp kỹ thuật tiên tiến nhằm giải quyết khâu thời vụ, đồng thời đảm bảo tỉ lệ sống cao; ngoài ra còn điều chỉnh được mật độ trồng, điều chỉnh hướng lá để cây ngô phát triển thuận lợi, cho năng suất cao trong vụ ngô đông. Kỹ thuật: - Hạt ngô được gieo trên khay xốp (có thể sử dụng loại khay 66-88 lỗ), giá thể gồm: rơm rạ ủ mục hoặc xơ dừa + phân hữu cơ vi sinh + đất bột theo tỉ lệ: 1:1:3. Sử dụng NPK (5.10.3) trộn với hỗn hợp giá thể trên với lượng 30g/1 khay. - Sau khi gieo hạt, tưới nước giữ ẩm thường xuyên bằng ô-doa. Chọn nơi tiện chăm sóc, tránh ngập úng khi có mưa, nơi có đủ ánh sáng cho cây con phát triển để đặt khay bầu. - Thời gian để ngô trong bầu tối đa từ 7-12 ngày. Không nên để quá 12 ngày, cây ngô sẽ cao vóng, yếu ớt. http://www.khuyennongvn.gov.vn/portals/0/news_images/2015/09/nguyetkn/ngo_bau_caitien.jpg Cây ngô con sản xuất bằng phương pháp làm bầu cải tiến (ảnh: Thu Hằng) 4. Chuẩn bị đất trồng ngô đông: Đất trồng ngô đông, ngay khi thu hoạch lúa vụ trước cần dùng máy thu hoạch để cắt sát gốc rạ. Toàn bộ lượng rạ để lại ruộng dùng để che phủ đất (có tác dụng giảm lượng nước bốc hơi, giữ ẩm cho ruộng trồng, đồng thời hạn chế cỏ dại). Ruộng trồng độ ẩm yêu cầu tốt nhất từ 85-90% (đi lún chân). Nếu ruộng khô cần tưới nước cho đủ ẩm, sau đó mới tiến hành trồng. Cần tạo rãnh trên ruộng trồng bằng cách áp dụng máy cơ giới hóa sẽ giảm chi phí công lao động. Tùy thuộc điều kiện cụ thể ruộng trồng: nếu ruộng dễ thoát nước thì cứ 5-6 hàng tạo 1 rãnh; với ruộng khó thoát nước cứ 3-4 hàng tạo 1 rãnh thoát nước. Độ sâu của rãnh thoát từ 18-20 cm, bề mặt rãnh từ 15-20 cm. 5. Kỹ thuật trồng cây con ra ruộng: - Mật độ: để đảm bảo năng suất cao, cần đảm bảo trồng ngô với mật độ từ 60.000 - 65.000 cây/ha (khoảng 2.200 - 2.350 cây/sào Bắc bộ). - Khoảng cách: hàng cách hàng từ 60 - 65 cm, cây cách cây từ 22 - 24 cm. - Cách đặt bầu cây trên luống theo kiểu nanh sấu và hướng đặt bầu theo hướng lá xòe ra 2 bên mép luống. 6. Phân bón 6.1. Liều lượng phân bón: Với mật độ trồng từ 60.000 - 65.000 cây/ha, đòi hỏi cần phải thâm canh tốt thì ruộng ngô mới đạt năng suất cao. Tuy nhiên, tùy theo từng loại đất khác nhau và tùy thực trạng ruộng trồng mà cân nhắc những công thức bón phân sau đây: Các công thức Lượng phân bón (kg/ha) Ghi chú Phân chuồng/ Hữu cơ sinh học Urê Lân supe Kaliclorua Công thức 1 - 350-420 500-600 160-200 Đất có độ phì tốt Công thức 2 6.000-8.000 350-420 500-600 200-220 Đất có độ phì khá Công thức 3 10.000 350-420 600-700 220-250 Độ phì kém đến trung bình Ghi chú: Phân chuồng đã hoai mục. Nếu bón phân hữu cơ sinh học thì lượng bón tương đương 1/10 lượng phân chuồng. 6.2. Phương pháp bón: Các đợt bón kết hợp với làm đất, xới xáo và làm cỏ theo các đợt bón sau đây: Lượt bón Thời điểm bón Lượng bón Ghi chú Bón lót Khi xới đất, lên luống trồng Toàn bộ phân chuồng, phân lân supe + 1/3 lượng urê Bón thúc lần 1 Khi ngô 5-6 lá Bón 1/3 lượng urê + 1/2 lượng Kali clorua. Bón thúc lần 2 Khi ngô 10-11 lá Bón hết lượng phân còn lại Khi ngô bắt đầu xoáy nõn 7. Tưới và quản lý nước: Trong suốt quá trình sinh trưởng phát triển, cây ngô luôn cần đảm bảo đủ ẩm, nhưng cũng không được để ruộng ngập nước sau mưa. Chú ý, trong giai đoạn đầu vụ ngô đông thường có những trận mưa lớn, nên cần có biện pháp thoát nước kịp thời, không để ruộng bị ngập quá 24 giờ (sẽ làm chết cây con và ruộng ngô sẽ sinh trưởng phát triển kém). Đối với ruộng ngô có điều kiện tưới, thì trong suốt quá trình từ gieo trồng đến sau khi trỗ cờ 20 ngày, cây ngô cần bổ sung nước 5 - 7 lần. Ở những nơi điều kiện thủy lợi cho phép có thể duy trì mực nước thường xuyên trong rãnh từ 5 - 7 cm. Khi tưới nước cần kết hợp với các kỳ bón phân. Trong điều kiện khô hạn giai đoạn mới trồng, nếu cây con có biểu hiện thiếu nước (lá nhỏ, quăn) cần phải tưới bổ sung nước ngay cho ruộng ngô. 8. Quản lý cỏ dại: Trước khi đưa bầu ngô ra ruộng, có thể sử dụng thuốc trừ cỏ tiền nảy mầm để phun trừ. Thuốc hiện phổ biến trên thị trường hiện nay là Maizine 80WP. Liều lượng và cách phun: pha 2,5-3,0 kg thuốc cùng 400 lít nước phun cho 1 ha (khoảng 100 g pha với 14 lít nước phun cho 1 sào Bắc bộ). Cũng có thể sử dụng thuốc trừ cỏ hậu này mầm Gramoxone 20SC để phun cho ruộng ngô có nhiều cỏ sau khi trồng, với liều lượng và cách pha như thuốc trừ cỏ Maizine 80WP. Tuy nhiên chú ý khi phun loại thuốc trừ cỏ này vì trên ruộng có cây ngô nên khi phun cần tránh phun vào cây ngô, tốt nhất là gắn phễu chụp để tránh thuốc dính vào cây ngô. Nếu có điều kiện nhân lực, tốt nhất là làm cỏ bằng biện pháp thủ công, kết hợp xới xáo, bón phân thúc sẽ tốt hơn cho môi trường sản xuất. 9. Phòng trừ sâu bệnh: Với cây ngô vụ đông, cần chú ý phòng trừ các đối tượng sâu bệnh hại sau đây: 9.1. Sâu hại ngô: - Sâu xám (Agrotis ipsilon Rott): gây hại chủ yếu ở thời kỳ cây còn non. Sâu thường gây hại vào ban đêm. Sâu cắn ngang cây non, lôi xuống đất để ăn. Sâu xám phá hại mạnh từ lúc ngô mọc mầm đến khi 5-6 lá. Khi cây ngô có 7-8 lá, sâu xám thường đục qua gốc vào bên trong thân, ăn phần mềm ở giữa làm cây ngô héo và chết. Biện pháp phòng trừ: + Làm đất kỹ, làm tốt khâu vệ sinh đồng ruộng, dọn thật sạch cỏ dại. + Gieo, trồng ngô đúng thời vụ và tập trung. + Bắt sâu bằng tay vào buổi sáng sớm. + Dùng bẫy để diệt sâu xám. Mồi bẫy làm theo công thức: 400g nước mật (hoặc nước đường) + 400ml dấm + 100ml rượu + 100ml nước + 5g thuốc Padan: khuấy đều thành hỗn hợp phun lên bó rơm rạ, cắm quanh bờ ruộng (mỗi sào Bắc bộ cắm 1-2 bó). + Dùng thuốc trừ: có thể dùng 1 trong 2 loại thuốc: Basudin 10H (1,0-1,5 kg) hoặc Diaphos (0,7kg) trộn với đất bột để rắc theo hàng cho 1 sào Bắc bộ. - Sâu đục thân ngô (Ostrinia nubinalis): gây hại trong suốt quá trình sinh trưởng phát triển của cây ngô và hại ở tất cả các bộ phận (thân, lá, bắp). Khi cây ngô còn nhỏ, sâu đục vào nõn làm chết điểm sinh trưởng. Khi cây ngô lớn hơn, sâu đục vào thân làm cản trở quá trình vận chuyển chất dinh dưỡng, khi gặp gió bão cây ngô sẽ bị đổ gãy. Khi trỗ cờ, sâu đục vào cờ làm gãy cờ, đục vào bắp làm thối bắp, ảnh hưởng lớn đến năng suất, sản lượng ngô. Biện pháp phòng trừ: Dùng thuốc Padan 95SP (20-30g) hoặc thuốc Regent 800WG (1,0-1,5g) pha với 20 lít nước để phun cho 1 sào Bắc bộ khi sâu non mới nở. Có thể dùng thuốc dạng hạt như: Basudin 10H, Diaphos 10H bằng cách rắc 4-5 hạt vào nõn cây ngô. - Rệp cờ hại ngô (Aphis maydis Fitch và Rhopalosiphum maydis): thường gây hại từ khi cây ngô 8 - 9 lá đến khi thu hoạch. Rệp bám trên lá, trong nõn, bẹ lá, lá bi, hoa cờ… chích hút nhựa các bộ phận làm cho cây còi cọc, bắp nhỏ, năng suất và chất lượng ngô giảm. Rệp phát triển nhanh và gây hại mạnh khi nguồn thức ăn đầy đủ, nhất là những ruộng ngô gieo dày, ẩm độ không khí trong ruộng cao hoặc ruộng ngô bị hạn. Rệp ngô còn là môi giới truyền vi-rút gây bệnh khảm lá, đốm lá ngô. Biện pháp phòng trừ: + Vệ sinh đồng ruộng, làm sạch cỏ trong ruộng và xung quanh bờ để không bị rệp bay sang phá hại từ các ký chủ phụ. + Trồng ngô với mật độ hợp lý, không quá dầy. Khi cây ngô cao 25-30 cm thì tiến hành tỉa định cây, loại bỏ những cây gầy yếu cho ruộng thông thoáng hạn chế rệp phát triển. + Bảo vệ các loài thiên địch trên ruộng ngô. + Khi mật độ rệp cao dùng các loại thuốc phổ biến như Mospilan 3EC, Sherpa 25EC, Trebon 10EC, Sherzol 50EC, Reasgant 1.8EC… phun theo hướng dẫn của nhà sản xuất. http://www.khuyennongvn.gov.vn/portals/0/news_images/2015/09/nguyetkn/dieu_tra_saubenh_ngo.jpg Điều tra sâu bệnh và kiểm tra sinh trưởng trên ruộng ngô 9.2. Bệnh hại ngô: - Bệnh khô vằn (Rhizoctonia solani Kuhn): hạch nấm tồn tại trong đất và tàn dư cây bệnh và hạt giống. Nấm bệnh gây hại cho ngô từ khi mới nảy mầm đến khi thu hoạch. Cây ngô bị nhiễm bệnh trong giai đoạn mầm thường còi cọc và vàng, nhưng thường gây hại nặng ở giai đoạn cây ngô trỗ cờ đến làm hạt. Biện pháp phòng trừ: + Không chọn những bắp bị bệnh để làm giống. + Lựa chọn các giống có khả năng kháng bệnh để trồng. + Vệ sinh đồng ruộng, thu dọn sạch tàn dư cây bệnh. Cày ải hoặc ngâm dầm để diệt hạch nấm. + Xử lý hạt giống bằng Rovral (2g/10kg hạt giống). + Ruộng ngô bị bệnh giai đoạn cây ngô đã lớn: làm sạch cỏ, bóc sạch bẹ và lá bị bệnh đem tiêu hủy. + Dùng chế phẩm nấm đối kháng Trichoderma ủ với phân chuồng bón cho ngô với lượng 80-100 kg/ha (3-4 kg/sào Bắc bộ) để phòng bệnh. + Phun trừ bệnh bằng thuốc Validamicin 3SC, Validacin 3% hoặc Anvil 5SC… theo hướng dẫn của nhà sản xuất. - Bệnh đốm lá lớn (Helminthosporium turcicum Pass): Nấm bệnh xâm nhập vào lá qua các bộ phận còn non trên cây. Những ruộng ngô xấu, ít được chăm sóc hoặc những ruộng thường xuyên bị thiếu nước... làm cho cây ngô sinh trưởng kém, còi cọc, không phát triển được là điều kiện thuận lợi để bệnh phát sinh phát triển. Các giống ngô địa phương bị bệnh nặng hơn các giống ngô lai. Tàn dư cây bệnh trên đồng ruộng là nguồn lây nhiễm cho vụ sau. Biện pháp phòng trừ: + Sử dụng giống ngô có khả năng chống chịu bệnh. + Dùng hạt giống sạch bệnh. Xử lý hạt giống bằng thuốc Rovral (2g/10kg hạt). + Luân canh trồng ngô với lúa và cây họ đậu. Chăm sóc tốt làm cho cây khỏe tăng cường khả năng chống bệnh. + Vệ sinh đồng ruộng, thu dọn sạch tàn dư cây bệnh để tiêu huỷ. Thường xuyên ngắt tỉa lá già, lá bệnh, tạo độ thông thoáng cho ruộng ngô. + Phun các loại thuốc Tilt 250ND, Anvil 5SC, Zinep 80WP, Carbenzim 500FL phun trừ bệnh. Lượng và cách phun theo hướng dẫn của nhà sản xuất. - Bệnh sọc lá (Peronosclerrospara sorghi): một trong những nguyên nhân gây bệnh nghiêm trọng là nông dân chưa nhận diện được bệnh và dùng thuốc chưa đúng. Cách nhận diện bệnh: lá ngô có sọc vàng hoặc trắng dọc theo phiến lá từ gốc lá ra chóp lá và lá hẹp hơn bình thường; lá đứng, có thể bị rách. Có những sợi tơ nấm màu trắng phát triển ở cả hai mặt của phiến lá. Cây ngô bệnh bị vàng đi, sinh trưởng kém, không cho trái hoặc trái không hạt. Triệu chứng có thể thay đổi tùy theo giống. Biện pháp phòng trừ: + Vệ sinh đồng ruộng trước khi gieo trồng và gieo, trồng đồng loạt. + Không chọn làm giống từ ruộng có cây nhiễm bệnh. + Xử lý giống trước gieo bằng cách: trộn thuốc Ridomil Gold 68WG với liều lượng 15 g/kg hạt giống một ngày trước khi gieo. + Bón phân NPK, không bón nhiều phân đạm. + Những vùng áp lực bệnh nặng nên phun thuốc Ridomil Gold 68WG khi cây con mọc 7-10 ngày sau khi gieo. Khi cây được 20-25 ngày phun kỹ, đều 2 mặt lá, nên kiểm tra lại nếu còn triệu chứng bệnh thì phun thêm lần 2. Có thể dùng thuốc Amistar Top 325SC theo khuyến cáo của nhà sản xuất. + Cây bị nhiễm bệnh cần nhổ bỏ, đem ra khỏi ruộng tiêu hủy bằng cách chôn hoặc đốt. - Bệnh lùn sọc đen: đây là bệnh phổ biến khi trồng ngô trên đất lúa. Tác nhân gây bệnh do do vi-rút gây bệnh lùn sọc đen phương nam gây ra, vi-rút này thuộc nhóm Fijivirus-2, họ Reoviridae. Rầy lưng trắng (Sogatella furcifera) là môi giới truyền bệnh. Cây ngô bị bệnh có biểu hiện chung là cây thấp lùn, lá ngọn xoăn, lá xanh đậm hơn bình thường; phiến lá dày và giòn; một số cây gốc mọc thêm nhiều chồi phụ. Khi cây có 4-6 lá thì có u sáp sần xùi trên đốt thân, dọc gân ở mặt sau lá, cổ lá xếp xít nhau và xòe ngang. Cây bị bệnh có thể không ra bắp hoặc có thể có bắp nhưng hạt thưa và nhỏ. Biện pháp phòng trừ: + Vệ sinh đồng ruộng trước khi gieo trồng để diệt trừ rầy lưng trắng. Đốt, dọn tàn dư hoặc cày vùi gốc rạ, dọn sạch cỏ dại nếu thấy dấu hiệu có rầy trong vụ lúa trước đó. + Xử lý hạt giống bằng thuốc Cruise plus theo hướng dẫn của nhà sản xuất. 10. Thu hoạch và sơ chế: - Thu hoạch khi ngô chín hoàn toàn hoặc chín sinh lý (dấu hiệu chín sinh lý khi chân hạt ngô có vết đen hoặc 75% số cây ngô trên ruộng có lá bị khô), độ ẩm đạt 28-30%. Cũng có thể thu hoạch muộn hơn nếu thời tiết không ảnh hưởng. - Phơi nắng hoặc sấy bắp ngô đến khi độ ẩm hạt đạt 14-15% thì có thể đóng bao, cất trữ nơi khô ráo, thoáng mát./.
Nguồn tin: Theo Báo Nông nghiệp Việt Nam:

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây