ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH

Thứ ba - 19/11/2013 21:51 1.936 0
Xử lý vi phạm hành chính nói chung và xử phạt vi phạm hành chính nói riêng là công cụ quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước nhằm duy trì trật tự, kỷ cương trong quản lý hành chính của Nhà nước. Đây cũng là vấn đề trực tiếp liên quan đến cuộc sống hàng ngày của nhân dân, tổ chức, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội hết sức quan tâm.
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH Xử lý vi phạm hành chính nói chung và xử phạt vi phạm hành chính nói riêng là công cụ quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước nhằm duy trì trật tự, kỷ cương trong quản lý hành chính của Nhà nước. Đây cũng là vấn đề trực tiếp liên quan đến cuộc sống hàng ngày của nhân dân, tổ chức, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội hết sức quan tâm. Được ban hành đầu tiên vào năm 1989, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (Pháp lệnh XLVPHC) đã từng bước được hoàn thiện góp phần quan trọng trong công tác phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả đối với các vi phạm hành chính ở nước ta, bảo đảm trật tự quản lý nhà nước, an toàn xã hội để phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, qua hơn 10 năm thực hiện, Pháp lệnh XLVPHC đã bộc lộ những hạn chế, bất cập đòi hỏi phải khẩn trương nghiên cứu, điều chỉnh, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của đời sống kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn phát triển mới. Vì vậy đặt ra yêu cầu phải khẩn trương soạn thảo và ban hành Luật Xử lý vi phạm hành chính (Luật XLVPHC ) nhằm góp phần bảo đảm trật tự, kỷ cương quản lý hành chính, an ninh, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân; đấu tranh phòng, chống có hiệu quả đối với vi phạm hành chính, tội phạm trong thời kỳ mới; khắc phục tối đa tình trạng thiếu thống nhất và chồng chéo trong hệ thống pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thuận lợi cho việc thực hiện các nghĩa vụ mà Việt Nam đã cam kết trong các điều ước quốc tế; đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của đời sống kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn phát triển mới. II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT 1. Thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng về cải cách hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp và cải cách hành chính được xác định trong các nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, theo hướng: “Hình thành cơ chế pháp lý để Chính phủ thực hiện quyền yêu cầu xem xét, xử lý bằng thủ tục tư pháp đối với mọi vi phạm nghiêm trọng được phát hiện trong quá trình quản lý, tổ chức thi hành pháp luật”, “tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng của công dân và cơ quan công quyền trước Tòa án”. 2. Quy định đầy đủ, toàn diện các vấn đề về xử lý vi phạm hành chính, bảo đảm kế thừa những quy định đã được thực tiễn kiểm nghiệm, khắc phục một cách cơ bản những hạn chế, bất cập của hệ thống pháp luật xử lý vi phạm hành chính hiện hành thông qua việc tổng kết đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong những năm qua. 3. Tăng cường tính công khai, minh bạch và bảo đảm dân chủ trong trình tự, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng biện pháp xử lý hành chính; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, đặc biệt là người chưa thành niên. 4. Bảo đảm phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và đáp ứng yêu cầu cải cách bộ máy nhà nước; tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm lập pháp về lĩnh vực này của các nước trong khu vực và trên thế giới. III. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT A- BỐ CỤC Luật Xử lý vi phạm hành chính được bố cục thành 06 phần, 12 chương, 142 điều. Phần thứ nhất: Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 20); Phần thứ hai: Xử phạt vi phạm hành chính (gồm 03 chương, 68 điều, từ Điều 21 đến Điều 88); Phần thứ ba: Các biện pháp xử lý hành chính (gồm 05 chương, 30 điều từ Điều 89 đến Điều 118); Phần thứ tư: Các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính (gồm 2 chương, 14 điều từ Điều 119 đến Điều 132); Phần thứ năm: Những quy định đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính (gồm 2 chương, 8 điều từ Điều 133 đến Điều 140) Phần thứ sáu: Điều khoản thi hành (gồm 2 điều Điều 141 và Điều 142). B- NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT I. Những quy định chung: Về một số nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính Các nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính được quy định trong Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 được tiếp tục quy định tại Luật XLVPHC. Bên cạnh đó, một số nguyên tắc mới được quy định trong Luật XLVPHC như: nguyên tắc bảo đảm công bằng, công khai, khách quan, tôn trọng quyền giải trình của cá nhân, tổ chức; nguyên tắc người có thẩm quyền xử phạt, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính có trách nhiệm chứng minh hành vi vi phạm bằng việc áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ việc một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ; cá nhân, tổ chức bị xử phạt, cá nhân bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính… Để phân định mức phạt tiền giữa cá nhân và tổ chức vi phạm, phù hợp với tính chất vi phạm, một trong những nguyên tắc mới được quy định tại Luật XLVPHC là “đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng hai lần mức phạt tiền đối với cá nhân”. Việc bổ sung những nguyên tắc này là rất cần thiết để khắc phục thực trạng cơ quan hành chính ban hành quyết định xử phạt mang tính đơn phương, áp đặt ý chí chủ quan của người có thẩm quyền xử phạt. 2. Về xử phạt vi phạm hành chính: Phần này quy định về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính, biện pháp khắc phục hậu quả và nguyên tắc áp dụng; thẩm quyền xử phạt và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả; thủ tục xử phạt, thi hành quyết định xử phạt và cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt. 2.1. Các hình thức xử phạt hành chính và các biện pháp khắc phục: Bên cạnh quy định hình thức trục xuất, Luật bổ sung hai hình thức là tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính. 2.2. Các biện pháp khắc phục hậu quả Luật bổ sung các biện pháp khắc phục hậu quả mới sau đây: - Buộc cải chính thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn. - Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hoá, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm. - Buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng. - Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính hoặc buộc nộp lại số tiền bằng trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đã bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định của pháp luật. 2.3.Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả: - Sửa đổi, bổ sung tên các chức danh có thẩm quyền xử phạt VPHC Luật quy định bổ sung thêm nhiều số chức danh có thẩm quyền xử phạt để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước. Đồng thời sửa đổi tên gọi của một số chức danh có thẩm quyền xử phạt theo quy định hiện hành của các văn bản có liên quan - Bổ sung thẩm quyền áp dụng các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả mới Luật quy định một số hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả mới so với Pháp lệnh XLVPHC như đình chỉ hoạt động có thời hạn, buộc cải chính thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn; buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện kinh doanh, vật phẩm; buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng; buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm hoặc buộc nộp lại số tiền bằng trị giá tang vật, phương tiện đã bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định của pháp luật; tương ứng với đó, Luật giao thẩm quyền áp dụng các hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả mới cho các chức danh trên cơ sở đánh giá sự phù hợp giữa tính chất của các hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả mới với nhiệm vụ quản lý nhà nước của chức danh đó. Quy định về mức phạt tiền của các chức danh từ Điều 38 đến Điều 51 của Luật XLVPHC được điều chỉnh theo hướng tăng cường phân cấp, tăng thẩm quyền xử phạt cho các chức danh cơ sở - là cấp trực tiếp phát hiện, thụ lý phần lớn các vụ việc vi phạm hành chính, nhằm nâng cao sự chủ động của các chức danh có thẩm quyền xử phạt ở cấp cơ sở, giảm tình trạng dồn việc xử phạt lên cấp trên, góp phần nâng cao tính kịp thời, thiết thực, hiệu quả của việc xử phạt vi phạm hành chính. - Thay đổi cách thức quy định về thẩm quyền áp dụng hình thức xử phạt tiền Luật thay đổi cách thức quy định về thẩm quyền áp dụng hình thức xử phạt tiền theo hướng không quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo một mức phạt tiền cố định đối với tất cả các chức danh như Pháp lệnh XLVPHC mà quy định theo tỷ lệ phần trăm (%) so với các mức phạt tối đa được quy định tại Điều 24 của Luật, đồng thời có khống chế mức trần đối với một số chức danh có thẩm quyền chung hoặc xử phạt trong nhiều lĩnh vực. Xác định và phân định thẩm quyền, giao quyền xử phạt Luật bổ sung nguyên tắc xác định thẩm quyền xử phạt tại Điều 52. Theo đó, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của các chức danh là thẩm quyền áp dụng đối với một hành vi vi phạm hành chính của cá nhân; trong trường hợp phạt tiền, thẩm quyền xử phạt tổ chức gấp 2 lần thẩm quyền xử phạt cá nhân và được xác định theo tỷ lệ phần trăm quy định tại Luật XLVPHC đối với chức danh đó. Bên cạnh đó, Điều 53 Luật XLVPHC quy định trường hợp chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Luật này có sự thay đổi về tên gọi thì các chức danh đó có thẩm quyền xử phạt, nhằm bảo đảm tính linh hoạt trong việc áp dụng quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Về vấn đề giao quyền xử phạt, Luật thể hiện rõ cơ chế giao quyền theo hướng: người có thẩm quyền xử phạt có thể giao cho cấp phó thực hiện thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Cấp phó được giao quyền xử phạt vi phạm hành chính phải chịu trách nhiệm về quyết định xử phạt vi phạm hành chính của mình trước cấp trưởng và trước pháp luật. Người được giao quyền không được giao quyền hoặc ủy quyền cho bất kỳ cá nhân nào khác. Luật cũng quy định việc giao quyền có thể được thực hiện thường xuyên hoặc theo vụ việc và phải được thể hiện bằng văn bản, trong đó xác định rõ phạm vi, nội dung, thời hạn giao quyền. 2.5. Về áp dụng các biện pháp xử lý hành chính: Luật Xử lý vi phạm hành chính kế thừa quy định 4 biện pháp xử lý hành chính đã được quy định trong Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, đó là biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng; biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trong đó, Luật quy định cụ thể về đối tượng áp dụng của từng biện pháp; thời hạn áp dụng của từng biện pháp (từ Điều 89 đến Điều 96 - Chương I, Phần thứ ba); thủ tục lập hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính (từ Điều 97 đến Điều 104 - Chương II, Phần thứ ba); thẩm quyền, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính (Điều 105 và Điều 105 - Chương III, Phần thứ ba); thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính (từ Điều 107 đến Điều 114 - Chương IV, Phần thứ ba) và các quy định khác liên quan đến việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính (từ Điều 115 đến Điều 118 - Chương V, Phần thứ ba). Những nội dung có sự thay đổi lớn đó là: - Về thẩm quyển quyết định áp dụng biện pháp: Luật quy định thẩm quyền xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính các biện pháp xử lý hành chính hạn chế trực tiếp quyền tự do của công dân (biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc) là Tòa án nhân dân. Đây là nội dung thay đổi rất lớn so với Pháp lệnh XLVPHC. Riêng thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn vẫn được giao cho Chủ tịch UBND cấp xã. Một nội dung quan trọng mang tính cải cách lớn của Luật là cơ quan lập hồ sơ phải thông báo cho người bị áp dụng, cha mẹ hoặc người đại diện của họ về việc lập hồ sơ để những người này đọc hồ sơ và ghi chép các nội dung cần thiết (khoản 4 Điều 97, khoản 3 Điều 99, khoản 3 Điều 101 và khoản 3 Điều 103). Trên cơ sở xem xét các tài liệu trong hồ sơ, người bị đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính có thể chuẩn bị ý kiến để tự bảo vệ quyền, lợi ích của mình trong cuộc họp tư vấn trong trường hợp bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và trước Tòa án trong trường hợp bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đối với người bị đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, Luật quy định người bị đề nghị áp dụng, cha mẹ hoặc người giám hộ (trong trường hợp đối tượng là người chưa thành niên), người đại diện hợp pháp của họ phải được mời tham gia cuộc họp tư vấn và phát biểu ý kiến của mình về việc áp dụng biện pháp. Thứ hai, quy định cụ thể về trình tự, thủ tục lập hồ sơ đề nghị và thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính Đối với biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, Luật quy định rõ về việc lập hồ sơ; bổ sung trách nhiệm của công chức tư pháp - hộ tịch trong việc kiểm tra hồ sơ và tổ chức cuộc họp tư vấn; quy định về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, người được phân công giúp đỡ đối tượng; quy định về khoản kinh phí hỗ trợ cho việc quản lý, giúp đỡ, giáo dục đối tượng... Về thủ tục lập hồ sơ đề nghị xem xét quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, do các biện pháp này sẽ được Tòa án xem xét, quyết định theo trình tự, thủ tục tư pháp, Luật quy định hồ sơ sau khi được lập sẽ được gửi đến Trưởng phòng tư pháp cấp huyện để kiểm tra tính pháp lý trước khi Trưởng công an cấp huyện hoặc Trưởng phòng Lao động - Thương binh và Xã hội cấp huyện chuyển đến Tòa án nhân dân. Trình tự, thủ tục xem xét, quyết định việc áp dụng các biện pháp này tại Tòa án nhân dân được giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định. Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và các quy định khác liên quan đến việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính 3. Về các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định 9 biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính. Trong 9 biện pháp, thì biện pháp áp giải người vi phạm là biện pháp mới được bổ sung (Điều 124); biện pháp giao cho gia đình, tổ chức quản lý người đang trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính được thay đổi tên gọi từ biện pháp bảo lãnh hành chính (Điều 131). So với Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, các quy định về biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính trong Luật Xử lý vi phạm hành chính có sự thay đổi khá lớn về điều kiện, thẩm quyền... áp dụng một số biện pháp ngăn chặn để hạn chế tối đa việc áp dụng các biện pháp liên quan đến nhân thân, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức vi phạm và bảo đảm tính khả thi của quy định trên thực tiễn; quy định chặt chẽ các điều kiện áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Bên cạnh đó, Điều 126 Luật quy định một số nội dung mới về xử lý tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ theo thủ tục hành chính, cụ thể, đối với tang vật, phương tiện đang bị tạm giữ do bị chiếm đoạt, sử dụng trái phép để vi phạm hành chính thì trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp. Trong trường hợp này, cá nhân, tổ chức vi phạm phải nộp một khoản tiền tương đương trị giá tang vật, phương tiện vi phạm vào ngân sách Nhà nước. Trường hợp chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp có lỗi trong việc để người vi phạm sử dụng tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thì có thể bị tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước. 4. Về các quy định để xử lý đối với người chưa thành niên vi phạm hành chính: Khác với Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, Luật ghi nhận một phần mới đưa ra những quy định đặc thù để người có thẩm quyền ưu tiên xem xét ra quyết định xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên, khi người chưa thành niên vi phạm, họ không phải chịu các chế tài xử lý vi phạm hành chính với mức độ tương tự như áp dụng đối với các hành vi vi phạm của người đã thành niên thực hiện. Nội dung phần này quy định về nguyên tắc xử lý; việc áp dụng các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả; áp dụng các biện pháp xử lý hành chính; thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính và các biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên (Chương II, Phần thứ năm), trong đó, phần các biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên như các biện pháp nhắc nhở (Điều 139), quản lý tại gia đình (Điều 140) là những biện pháp hoàn toàn mới so với Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính. 5. Hiệu lực thi hành: Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2013, trừ các quy định liên quan đến việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính do Tòa án nhân dân xem xét, quyết định thì có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2014./.
Tác giả bài viết: Tuyết Nhung

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây