LIÊN KẾT THEO CHUỖI GIÁ TRỊ SẢN PHẨM TRONG SẢN XUẤT VÀ KINH DOANH SẢN PHẨM GỖ RỪNG TRỒNG, ĐỊNH HƯỚNG TRONG PHÁT TRIỂN LÂM NGHIỆP BÌNH PHƯỚC
Cao Xuân Hưng -CCLN
2015-12-01T04:33:42-05:00
2015-12-01T04:33:42-05:00
https://snnptnt.binhphuoc.gov.vn/vi/news/tin-dia-phuong/LIEN-KET-THEO-CHUOI-GIA-TRI-SAN-PHAM-TRONG-SAN-XUAT-VA-KINH-DOANH-SAN-PHAM-GO-RUNG-TRONG-DINH-HUONG-TRONG-PHAT-TRIEN-LAM-NGHIEP-BINH-PHUOC-1067.html
https://snnptnt.binhphuoc.gov.vn/uploads/news/2015_12/new-picture-97.png
SỞ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TỈNH BÌNH PHƯỚC
https://snnptnt.binhphuoc.gov.vn/uploads/logo-so-nong-nghiep-phat-trien-nong-thon-binh-phuoc.png
Với diện tích rừng trồng khoảng 100 ngàn hecta, lâm nghiệp Bình Phước có nhiều tiềm năng để phát triển mô hình liên kết theo chuỗi giá trị sản phẩm gỗ rừng trồng, tạo động lực cho tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới.
Nguyên liệu dồi dàoTheo kết quả theo dõi diễn biến rừng của Chi cục Kiểm lâm, năm 2014 toàn tỉnh Bình Phước có 101.649 ha rừng trồng, trong đó rừng trồng cây gỗ như Keo, Sao, Dầu là 5.539 ha, rừng trồng cây đặc sản như Cao su, điều là 96.110 ha. Theo kết quả điều tra phục vụ báo cáo rà soát quy hoạch ngành Nông nghiệp và PTNT, diện tích cây cao su trên đất lâm nghiệp năm 2014 là 42.950 ha.Với diện tích 5.539 ha rừng trồng cây lâm nghiệp, trong đó có khoảng 4.000 ha rừng keo lai, với chu kỳ kinh doanh 05 năm, có thể cung cấp 96.000 m3 gỗ/năm. Đối với cao su chu kỳ kinh doanh 27 năm và với diện tích 42.950 ha có thể cung cấp hơn 159.000 m3 gỗ/năm. Như vậy, tổng sản lượng gỗ nguyên liệu hàng năm cung cấp cho các nhà máy chế biến gỗ trên địa bàn tỉnh đạt xấp xỉ 255.000 m3 gỗ/năm. Đây là nguồn nguyên liệu đáng kể cung cấp cho các nhà máy chế biến gỗ trong và ngoài tỉnh. Đó là chưa kể đến 200.000 ha cao su trồng trên đất sản xuất nông nghiệp, hàng triệu cây lâm nghiệp trồng phân tán.Thực trạng liên kết trong sản xuất, chế biến gỗ rừng trồngTrong thời gian qua, một số mặt hàng nông sản luôn trong tình trạng được mùa thì mất giá... Điển hình như cây cao su, thời điểm những năm 2007 - 2011 cao su được coi là vàng trắng, mỗi hecta cho thu nhập bình quân 20-30 triệu đồng mỗi tháng. Đến nay, mỗi hecta cao su chỉ cho thu nhập bình quân 7 triệu đồng/tháng chưa trừ chi phí. Một số doanh nghiệp đã ngưng cạo mủ, người dân thì cắt giảm chi phí đầu tư để lấy công làm lời. Một số trường hợp đã chặt cao su để chuyển sang cây trồng khác như điều, tiêu, cà phê… Cứ thế, sản xuất nông nghiệp rơi vào vòng luẩn quẩn, người dân thì loay hoay, sản xuất thiếu định hướng và tự phát. Với ngành sản xuất, kinh doanh sản phẩm gỗ rừng trồng mặc dù đã có những khởi sắc nhưng cũng còn nhiều tồn tại và bất cập. Người dân thì loay hoay với tình trạng “trồng”, “chặt”, các doanh nghiệp chế biến gỗ thì không tiếp cận trực tiếp với người nông dân mà phải thu mua thông qua tư thương, các đầu mối dẫn đến mua nguyên liệu với giá cao hơn so với thị trường, không cắt giảm được các chi phí trong khâu chuẩn bị sản xuất để làm gia tăng giá trị sản phẩm gỗ... Việc hình thành các mối liên kết sản xuất trong lâm nghiệp nói chung và liên kết trong sản xuất, chế biến gỗ rừng trồng nói riêng vẫn còn hạn chế. Đến nay, trên địa bàn tỉnh có 29 hợp tác xã nông nghiệp được nhà nước giao đất, giao rừng để sản xuất kinh doanh và bảo vệ rừng trong tỉnh là 1.972,35 ha. Trong đó, trồng cao su: 1248.79ha, Điều: 211.6 ha, trồng lúa: 161.78, khoanh nuôi bảo vệ rừng: 337.88 và cây trồng khác: 12.3 ha. Tuy nhiên, số hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực lâm nghiệp chỉ đếm trên đầu ngón tay.Hiện nay, liên kết theo chuỗi giá trị sản xuất hàng hóa trong sản xuất lâm nghiệp nói chung và trong sản xuất, chế biến gỗ rừng trồng nói riêng vẫn còn bỏ ngỏ. Trên địa bàn tỉnh chỉ có mô hình liên kết giữa Công ty Cổ phần sản xuất Xây dựng Thương mại và Nông nghiệp Hải Vương với Công ty Cổ phần Nguyên Vũ theo hình thức Công ty Cổ phần sản xuất Xây dựng Thương mại và Nông nghiệp Hải Vương cung ứng nguyên liệu cho Nhà máy chế biến gỗ của Công ty Cổ phần Nguyên Vũ. Các nhà máy có công suất chế biến lớn trên địa bàn tỉnh như Đông Whoa, Kim Tín MDF, Công ty Cổ phần Gỗ Đồng Phú,... vẫn chưa có vùng trồng rừng nguyên liệu cho riêng mình. Các doanh nghiệp chế biến gỗ chủ yếu thu mua gỗ cao su, điều từ các đầu mối cung cấp, các tư thương, cò lái nên giá cao hơn giá trị thực tế trong khi người nông dân trồng rừng cũng thua thiệt khi bị tư thương ép giá. /uploads/news/2015_12/new-picture-95_1.png Từ rừng trồng của Công ty Hải Vương đến sản phẩm gỗ gia dụng của Nhà máy Nguyên Vũ.Định hướng phát triển mô hình liên kết theo chuỗiNgày 29/4/2014, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Kế hoạch số 1391/KH-BNN-TCLN về Phát triển kinh tế hợp tác và liên kết theo chuỗi giá trị sản phẩm trong lâm nghiệp giai đoạn 2014 – 2020. Ngày 16/3/2015 Tổng cục Lâm nghiệp cũng đã ban hành Văn bản số 282/TCLN-QLSXLN hướng dẫn việc lập phương án xây dựng mô hình kinh tế hợp tác, liên kết theo chuỗi giá trị sản phẩm trong lâm nghiệp giai đoạn 2015 – 2020, trong đó giao Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các địa phương triển khai việc lập, thẩm định và phê duyệt Phương án xây dựng các mô hình kinh tế hợp tác, liên kết theo chuỗi giá trị sản phẩm trong lâm nghiệp.Việc hình thành chuỗi liên kết trong sản xuất và chế biến sản phẩm gỗ rừng trồng có vai trò rất quan trọng trong xây dựng các mô hình kinh tế hợp tác, liên kết theo chuỗi giá trị sản phẩm trong lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh, tạo động lực cho tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Trong đó, phải chú trọng từ khâu giống cây trồng, chăm sóc rừng trồng, khai thác rừng và bảo quản chế biến lâm sản. Đối với giống cây trồng, phải đảm bảo giống cây đưa vào trồng rừng là giống được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận, ưu tiên các giống mới, giống tiến bộ khoa học kỹ thuật có năng suất sinh khối cao, khả năng chống chịu sâu bệnh tốt. Từ việc hình thành mối liên kết giữa bên cung cấp nguyên liệu đến nhà máy chế biến gỗ sẽ cắt bỏ được những khâu trung gian, mua đi bán lại nhiều lần gây thiệt thòi cho cả người dân và doanh nghiệp.Để làm được điều đó cần có những chính sách lâu dài để thu hút người dân, các tổ chức bắt tay tham gia xây dựng, phát triển các hình thức tổ chức kinh tế hợp tác, liên kết; thiết lập chuỗi liên kết sản phẩm trong sản xuất kinh doanh và chế biến gỗ rừng trồng, nâng cao hiệu quả hoạt động của các hình thức kinh tế hợp tác, liên kết thành những tổ, đội sản xuất và tạo thành chuỗi cung ứng, sản xuất, chế biến, tiêu thụ, tăng năng lực cạnh tranh của sản phẩm, xây dựng các mô hình liên kết gắn với tiêu thụ lâm sản phát triển chuỗi giá trị gia tăng, tái cấu trúc thị trường đầu vào và đầu ra giúp người nông dân tham gia vào các hình thức tổ chức kinh tế hợp tác, liên kết gắn kết với các doanh nghiệp có uy tín và thị trường xuất khẩu gỗ rừng trồng lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản...
Tác giả bài viết: Cao Xuân Hưng -CCLN
Nguồn tin: nguoichannuoi.vn