Lý Tự Trọng tên thật là Lê Hữu Trọng, sinh ngày 20/10/1914 tại Bản Mạy, tỉnh Nakhon Phanom, Vương quốc Thái Lan (vùng Đông Bắc nước Xiêm, tỉnh Lạc Hòn - địa giới đầu thế kỷ trước) trong gia đình giàu truyền thống yêu nước.
Cha của Lý Tự Trọng là ông Lê Hữu Đạt, quê ở làng Kẻ Vẹt (nay là xã Việt Tiến), huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh; mẹ là bà Nguyễn Thị Sờm quê ở Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Thời kỳ này do phải tránh sự truy lùng gắt gao của bọn thực dân Pháp nên hàng chục nghìn đồng bào yêu nước (phần lớn là miền Trung chủ yếu ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị...) từng nổi dậy theo Phan Đình Phùng đánh Pháp rồi theo Phan Bội Châu tham gia Việt Nam Quang phục Hội để mưu việc “phục quốc” buộc phải tìm đường vượt núi cao Trường Sơn và băng qua Sông Mẹ (Mê Kông) vừa để cuốc cày kiếm sống vừa để tổ chức lực lượng trở về đánh Pháp trong sự chia sẻ, đùm bọc của nhân dân nước bạn.
Lớn lên trong tinh thần và truyền thống yêu nước của cả hai gia đình và bà con Việt kiều, hơn 6 tuổi Lê Hữu Trọng được đến trường do các nhà lãnh đạo Việt Nam Quang phục Hội mở ở Bản Mạy. Tại đây, anh được học lịch sử nước Nam, văn thơ yêu nước của Phan Bội Châu và các nhà yêu nước khác cũng như học tiếng Hán, tiếng Thái...
Năm 1925, Lê Hữu Trọng là một trong tám thiếu niên được lựa chọn. đưa sang Quảng Châu (Trung Quốc) học tập, chuẩn bị xây dựng tổ chức thanh niên cộng sản ở Việt Nam. Để đảm bảo cho việc hoạt động bí mật của nhóm, tất cả các thành viên trong nhóm đều được thay đổi sang họ Lý (cùng họ với Lý Thụy - tức Nguyễn Ái Quốc). Lê Hữu Trọng đổi tên thành Lý Tự Trọng, sau đó được Nguyễn Ái Quốc giới thiệu vào học trung học tại Quảng Châu. Vốn thông minh hoạt bát, mưu trí, qua một thời gian ngắn, Lý Tự Trọng đã thông thạo tiếng Trung và được cử làm liên lạc cho Tổng bộ Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội ở Quảng Châu.
Đến giữa năm 1929, các tổ chức cộng sản ở Việt Nam lần lượt ra đời. Lý Tự Trọng được cử về nước hoạt động tại Sài Gòn - Chợ Lớn, tham gia tổ chức các cuộc mít tinh tại Sài Gòn, Hội nghị công nhân Đông Dương, đồng thời đảm nhận nhiệm vụ liên lạc trong và ngoài nước cho Xứ ủy Nam Kỳ. Lý Tự Trọng được giao nhiệm vụ đặc biệt, vận động tập hợp thanh niên trong các nhà máy, trường học để thành lập Đoàn Thanh niên cộng sản. Với bí danh là Nguyễn Huy, Lý Tự Trọng xin làm công nhân hãng than tại Sài Gòn.
Ngày 08/02/1931 Lý Tự Trọng đã rút súng bắn gục tên mật thám để cứu đồng chí Phan Bôi và bị thực dân Pháp bắt đưa đi tra tấn và giam giữ. Dù bị tra tấn vô cùng dã man nhưng địch không khai thác được thông tin gì từ anh, chỉ nói tên anh là Nguyễn Huy. Sau khi tra tấn một thời gian không thu được kết quả, bọn chúng đưa anh ra xử án và bị kết án tử hình. Trong những ngày cuối cùng ở xà lim án chém, Lý Tự Trọng vẫn lạc quan yêu đời, tin tưởng vào sự thắng lợi của cách mạng. Mặc dù bị xiềng xích nhưng hàng ngày anh vẫn tập thể dục, đọc Truyện Kiều, động viên các bạn trẻ nêu cao ý chí cách mạng. Khí phách hiên ngang của anh đã làm cho bọn cai ngục phải khâm phục và kinh ngạc, chúng gọi anh là “Ông Nhỏ”, “thật là con người gang thép”.
Tối ngày 20/11/1931, bọn cai ngục lặng lẽ đưa máy chém đến sát cửa Khám lớn. Lúc này, toàn khám náo động, tiếng đập cửa ầm ầm, tiếng la hét, tiếng hô khẩu hiệu của hàng nghìn tù nhân kể cả thường phạm vang ra ngoài: “Đả đảo thực dân xử tử anh Trọng”, “Đả đảo thực dân giết hại Nguyễn Huy”, “Trả tự do cho Lý Tự Trọng”. Bọn thực dân ra lệnh báo động, bao vây Khám lớn, cho lính xông vào các nhà giam trói tay, cùm chân tù nhân, nhưng tiếng thét vẫn cứ dồn dập vang lên. Cửa xà lim tử hình mở ra, một lũ lính lăm lăm tay súng vây quanh Lý Tự Trọng. Anh bình tĩnh, ung dung bước đi, miệng hô lớn: “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!” “Việt Nam, Việt Nam độc lập muôn năm!”, “Cách mạng Việt Nam thành công muôn năm!”. Tù nhân trong các nhà giam đồng loạt hô theo. Lát sau, từ cổng Khám lớn Sài Gòn vẳng lại: “Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian! Vùng lên, vùng lên...”. Đó là lời chào của Lý Tự Trọng gửi lại cho đồng bào, đồng chí chúng ta.
Sự hi sinh anh dũng của anh trở thành biểu tượng cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là lời hiệu triệu cho các thế hệ thanh niên Việt Nam đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.