Thận trọng khi phát triển cây mắc ca ở Tây Nguyên
Theo vietnamplus.vn
2015-04-09T05:33:31-04:00
2015-04-09T05:33:31-04:00
https://snnptnt.binhphuoc.gov.vn/vi/news/tin-trong-nuoc/Than-trong-khi-phat-trien-cay-mac-ca-o-Tay-Nguyen-870.html
/themes/egov/images/no_image.gif
SỞ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TỈNH BÌNH PHƯỚC
https://snnptnt.binhphuoc.gov.vn/uploads/logo-so-nong-nghiep-phat-trien-nong-thon-binh-phuoc.png
Với giá trị kinh tế và dinh dưỡng, mắc ca đang là loại cây trồng thu hút nhiều sự quan tâm và được kỳ vọng là cây thoát nghèo cho nông dân các tỉnh Tây Nguyên nói chung và tỉnh Đăk Lăk nói riêng.
Tuy nhiên, nhìn từ khía cạnh để phát triển một loài cây kinh tế mới thì không thể chỉ dựa trên sự tự phát, thiếu quy hoạch đồng bộ và thiếu tầm nhìn chiến lược. Một sự phát triển ồ ạt kiểu a dua sẽ đem lại những rủi ro lớn cho chính công cuộc thoát nghèo của bà con. Những khảo nghiệm chở tín hiệu vui Từ năm 2002, đã có nghiên cứu và trồng thử nghiệm cây mắc ca tại Tây Nguyên, Tây Bắc, các tỉnh vùng núi miền Trung của Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng (thuộc Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam) và một số tổ chức khác, bước đầu là với giống nhập từ Trung Quốc, sau đó nhập từ Thái Lan và Australia. Cụ thể, năm 2004, Trung Tâm nghiên cứu giống cây rừng đã chọn hộ ông Nguyễn Văn Cúc, trú tại thôn Lộc Xuân, xã Phú Lộc, huyện Krông Năng, tỉnh Đăk Lăk trồng khảo nghiệm cây mắc ca, với diện tích 1 ha xen với cây cà phê vối. Do phù hợp với khí hậu và thổ nhưỡng nên vườn mắc ca sinh trưởng khá tốt. Sau 4-5 năm cho năng suất khoảng 10 kg hạt/cây, thậm chí có cây đạt 15 kg/cây/năm. Qua mô hình khảo nghiệm này, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã công nhận 4 dòng mắc ca gồm 246; 816; OC; 849 là giống tiến bộ kỹ thuật cho vùng Krông Năng, Đắk Lắk. Thấy triển vọng từ cây trồng mới này, gia đình ông Cúc tiếp tục trồng xen trong diện tích cà phê còn lại. Đến nay, gia đình ông đã trồng được 1.000 cây mắc ca xen canh trong vườn cà phê. Trong số này, có 800 cây mắc ca cho thu hoạch quả ổn định, 200 cây còn lại bắt đầu cho quả trong năm nay. Theo nhẩm tính, với giá bán 150.000 đồng/kg như hiện nay gia đình ông đã thu về khoảng 450 triệu đồng. Ngoài bán hạt, mỗi năm ông Cúc còn bán hàng vạn cây giống cho nông dân địa phương và các tỉnh Gia Lai, Đăk Nông, Lâm Đồng. Ông Cúc cho biết mắc ca có giá trị gấp 3 lần cà phê, lại ít cần nước tưới, dễ thu hoạch, chăm sóc cũng dễ dàng hơn. Từ năm 2002, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên cũng nghiên cứu và trồng khảo nghiệm cây mắc ca (cả thực sinh và ghép cành) trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên với diện tích trên 20ha. Sau năm thứ 8 cây cho năng suất đạt 6-8 kg/cây/năm, với bình quân 300 cây/ha, thì tương đương 2 tấn/ha. Cây được 10-12 năm thì năng suất sẽ đạt đến giới hạn khoảng 3 tấn/ha, gần bằng với năng suất trung bình của cây mắc ca trồng tại Australia. Trọng lượng quả và tỷ lệ nhân của các giống đã trồng đạt được là khá tốt so với vùng nguyên sản như Australia, Hawaii cũng như các khu vực trồng mắc ca trên thế giới. Với tỷ lệ nhân là 1/3, với 3 tấn quả, năng suất nhân hạt đạt 1 tấn/ha. Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên cũng trồng thử nghiệm cây mắc ca xen với một số loài cây công nghiệp có giá trị trên địa bàn Tây Nguyên như cà phê vối, cà phê chè, ca cao. Tính đến nay tổng diện tích mô hình trồng xen là hơn 15 ha. Kết quả bước đầu cho thấy cây mắc ca sinh trưởng tốt ở tất cả các mô hình trồng xen. Tiến sỹ Lê Ngọc Báu, Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên và các cộng sự đánh giá cây mắ cca có thể sinh trưởng phát triển được ở một số vùng sinh thái của vùng Tây Nguyên, đặc biệt là những nơi có khí hậu lạnh (nhiệt độ tối ưu khoảng 12-32 độ C, nhiệt độ mùa hoa từ 18-21 độ C). Sau 9 năm trồng, cây mắc ca cho năng suất từ 7-9 kg hạt/cây với một số giống, cá biệt có những cây cho năng suất hơn 10 kg/cây/năm. Nếu so sánh với năng suất của vùng nguyên sản cây mắc ca, tại Australia vào năm thứ 10 năng suất trung bình trên cây đạt 10kg hạt/năm, vào giai đoạn kinh doanh ổn định (từ năm thứ 12 trở đi) năng suất trung bình trên cây chỉ cần từ 12-15 kg là đạt hiệu quả. Như vậy, có thể nói cây mắc ca có triển vọng phát triển trên địa bàn Tây Nguyên. Hiện nay, Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên có hơn 20 giống mắc ca, trong đó H2, OC và 508 là những giống rất triển vọng, cho năng suất cao. Cũng theo nghiên cứu của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên, lợi nhuận từ cây mắc ca cao hơn so với các cây công nghiệp dài ngày ở Tây Nguyên như cao su, cà phê. Với năng suất đạt được từ 3-5 tấn hạt/ha, giá bán 60.000 đồng/kg hạt (theo giá thị trường thế giới hiện nay) thì giá trị thu được từ một ha mắcca vào khoảng 180-300 triệu đồng/ha/năm, lợi nhuận ước tính vào khoảng 150-250 triệu đồng/ha/năm. Nếu trồng xen trong vườn cà phê với mật độ từ 100-120 cây/ha, năng suất mắc ca thu được vào thời kỳ kinh doanh vào khoảng từ 1,2 đến 1,5 tấn hạt/ha, giá trị thu được tăng thêm từ mắc ca trồng xen sẽ từ 70-90 triệu đồng, đồng thời còn tăng tính bền vững hơn cho vườn cà phê. Thiếu thận trọng dễ "mất cả chì lẫn chài" Với những kết quả khả quan từ nghiên cứu khảo nghiệm, các nhà quản lý, nhà khoa học và người nông dân kỳ vọng đây là cây thoát nghèo cho đồng bào vùng Tây Nguyên. Nhưng mắc ca cũng như nhiều loại cây khác, nếu muốn trở thành chủ lực để thoát nghèo vẫn cần một quy hoạch có vĩ mô tối thiểu là 20-50 năm. Đồng thời cần có một chiến lược thật cụ thể cho từng địa phương, từ diện tích, giống cây, nguồn giống, cách chăm trồng thu hoạch, chế biến và đầu ra cho sản phẩm. Thực tế nhiều năm qua, nông dân Việt Nam và ngay cả các địa phương cũng luôn có tâm lý chạy theo cây trồng nào được giá trên thị trường, "có mới nới cũ." Họ sẵn sàng chặt điều trồng cao su, ca cao, rồi chặt ca cao trồng dừa, trồng bưởi da xanh, chặt cao su để trồng khoai mỳ (sắn)… Thống kê của Cục trồng trọt, Bộ NN – PTNT , trong vài năm trước, có khoảng 15.000 héc ta điều đã bị chặt bỏ mỗi năm để trồng cao su. Tuy nhiên, hiện giá cao su trên thị trường ở mức dưới 30 triệu đồng/tấn, và vì thế, đã có hiện tượng người dân chặt bỏ cao su để chuyển sang trồng khoai mỳ (sắn). Chuyện xảy ra tương tự với cây ca cao. Khi cà phê ở mức 30.000 đồng/kg và ca cao có giá 55.000 -60.000 đồng/kg, đã có nhiều tỉnh, công ty “kêu gọi” người dân chuyển sang trồng ca cao. Như vậy, nếu căn cứ vào giá bán để khuyến khích nông dân trồng cây một cây nào đó thì con đường luẩn quẩn là chặt cây này trồng cây khác sẽ không ngừng tiếp diễn. Mà điều quan trọng ở đây là cả rừng cây tới triệu triệu ha. Trên thực tế, hiện mắc ca là cây trồng mới, chưa có quy hoạch vùng trồng. Tuy nhiên, hiện nay ở các tỉnh Tây Nguyên người dân đã trồng tự phát hàng nghìn hécta mắc ca bất chấp sự cảnh báo của các ngành chức năng. Tại tỉnh Đắk Lắk, theo thống kê chưa đầy đủ hiện diện tích mắc ca đã là 800ha, chủ yếu được trồng xen trong vườn cà phê. Hầu hết, diện tích mắc ca mới trồng chưa có thu hoạch nên hiệu quả của loại cây trồng này là chưa rõ thực hư. Theo cảnh báo của các nhà khoa học, việc trồng ồ ạt theo hướng tự phát sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro cho người nông dân và cho cả vùng cây kinh tế. Tiến sỹ Lê Ngọc Báu phân tích phải mất 4 năm, thậm chí 7 năm, loại cây này mới cho trái và từ 10 năm trở lên mới cho thu nhập ổn định, bởi vậy, nếu người dân trồng ở vùng không thích hợp về khí hậu, đất đai, chọn nguồn giống không tốt khiến cây không có quả hoặc quả ít thì xem như "mất cả chì lẫn chài." Tránh đi vào vết xe đổ Theo định hướng quy hoạch phát triển cây mắc ca của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Tây Nguyên là vùng quy hoạch chính để phát triển cây mắc ca với diện tích ước tính có thể lên đến 200.000ha và kỳ vọng đạt được 200.000 tấn hạt thô vào năm 2025, từ đó, đưa Việt Nam trở thành một cường quốc về cây mắc ca. Tiến sỹ Lê Ngọc Báu phân tích, với định hướng trên Tây Nguyên đã được xác định là địa bàn thích hợp để phát triển cây mắc ca với quy mô lớn bằng phương thức trồng thuần và trồng xen trong các vườn cà phê, nhưng không phải nơi nào trồng cũng mang lại hiệu quả. Cây mắc ca thích hợp nhất với địa hình có độ cao 700-800m so với mặt nước biển, như Krông Năng (Đắk Lắk), Măng Đen (Kon Tum), một số vùng ở Đắk Nông, Bảo Lộc (Lâm Đồng). Do đó, để tránh người nông dân tự phát đổi hướng canh nông thì các ngành chức năng cần sớm quy hoạch cụ thể vùng trồng cây mắc ca trước khi trồng trên diện rộng. Đồng thời có những phân tích, khuyến cáo để bà con hiểu, không vội vã trồng ồ ạt dẫn đến rủi ro. Mặt khác, mắcca là cây lâm nghiệp do đó không đòi hỏi phải chặt bỏ cây cũ. Phương pháp không trồng thuần cây mắcca mà trồng đan xen càphê, cacao sẽ vừa tăng thu nhập, tăng tính bền vững cho vườn cây và tránh rủi ro. Bên cạnh việc quy hoạch vùng trồng thì chất lượng cây giống cũng vô cùng quan trọng. Do nhận thấy lợi nhuận cao từ loại cây này nên không ít hộ dân trong tỉnh đang đua nhau chặt bỏ những diện tích cà phê già cỗi, vườn cây ăn quả… đầu tư mua cây giống về trồng với mơ ước đổi đời. Có “cầu” ắt có “cung,” nhiều chủ vườn ươm cây giống trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk cũng rậm rịch lai ghép, nhân giống mắc ca đáp ứng lượng mua đông đảo của người dân, chưa kể, chủ vườn còn tự tạo nên “cơn sốt” đẩy giá cây giống lên cao, từ 70.000-100.000 đồng/cây. Vấn đề quan trọng nhất chính là khâu đầu ra cho sản phẩm tránh bị ép giá, không bán được, sản phẩm không được chế biến đúng quy trình chất lượng (chủ yếu để thô) sẽ khiến 7-10 năm chăm tưới với số vốn đầu tư không nhỏ của bà con trở thành công cốc. Việc các địa phương cũng phải đầu tư nhà máy chế biến để nâng cao giá trị ngành hàng của loại cây được mệnh danh là “Hoàng hậu quả khô” này cũng cần đặt ra nghiêm túc mới hoàn chỉnh được một quy trình "thoát nghèo" cho người nông dân Tây Nguyên./.
Tác giả bài viết: Theo vietnamplus.vn
Nguồn tin: Văn phòng điều phối NTM